Chuyện một chiếc cầu đã gãy — Notes

Trầm Tử Thiêng · “The Story of a Broken Bridge” · 1968 · Huế / wartime lament
Background (English)
Chuyện một chiếc cầu đã gãy (“The Story of a Broken Bridge”) by Trầm Tử Thiêng was written in 1968, amid the turbulence of war, and is closely associated with Huế and the Trường Tiền/Tràng Tiền Bridge. Framed as an elegy for community and memory, the song recalls the bridge’s role in daily life—linking markets, fields, schools, and lovers—before violence “breaks a span.” With references to classical Huế styles (Nam Bình/Nam Ai) and iconic recitations popularized by singer Hoàng Oanh, it has become a cultural touchstone of remembrance and longing in Vietnamese popular music.
Giới thiệu (Tiếng Việt)
Chuyện một chiếc cầu đã gãy của Trầm Tử Thiêng sáng tác năm 1968, gắn với cố đô Huế và cầu Trường Tiền/Tràng Tiền. Bài hát là khúc bi hoài cho ký ức cộng đồng: chiếc cầu từng nối chợ sớm, ruộng đồng, cổng trường và những cuộc hẹn hò—đêm kia “gãy một nhịp” vì chiến cuộc. Giai điệu và hình ảnh gợi điệu Huế (Nam Bình/Nam Ai), phần ngâm thơ do ca sĩ Hoàng Oanh trình bày càng làm đậm chất hoài hương. Ca khúc trở thành dấu mốc tưởng niệm và thương nhớ trong tân nhạc Việt.

Cultural & Musical Notes (EN • VI)

Side-by-Side Lyrics • Dịch & Ghi chú (EN • VI)

Vietnamese Lyrics English Translation Cultural & Musical Notes (EN • VI)
Ngâm thơ (theo Hoàng Oanh):
“Ơi Huế ơi! Trăm nhớ với ngàn thương…
…Nơi đất khách lạc loài tôi vẫn nhớ mãi, thương hoài Huế … Huế”
Spoken prelude:
“Oh Huế—hundreds of memories, thousands of affections…
…In a foreign land, lost and scattered, I still remember, forever loving Huế.”
Invocation of Huế sets elegiac tone; mentions Tràng Tiền’s spans (“sáu vài mười hai nhịp”).
Lời gọi Huế mở giọng bi hoài; nhắc cầu Tràng Tiền (“sáu vài mười hai nhịp”).
1. Một ngày vào thuở xa xưa trên đất thần kinh…
…Khắp cố đô dân lành an vui ca thành điệu Nam Bình…
1. Long ago in the imperial land, people labored to build a fair bridge—
it carried lives across; throughout the capital, gentle folk sang in the mode of Nam Bình
Thần kinh = poetic name for Huế; Nam Bình marks Huế courtly calm.
“Thần kinh” là cách gọi Huế; Nam Bình gợi khí vị cung đình yên ả.
Niềm vui bao lâu ước mơ giờ trên xứ thơ…
…Thỏa lòng người dân hằng chờ có ngày hẹn hò tình đẹp như mơ
Joy long-dreamed now shone in the poetic land—
a bridge joining shores; hearts fulfilled, lovers promised a dreamlike meeting.
Bridge = promise of modernity + romance.
Cầu = biểu tượng giao thông mới và lời hẹn tình yêu.
2. Ngày ngày cầu đã đưa em qua nhóm chợ khuya…
…Cầu đưa ta đi sớm trưa… Hết lòng gìn giữ nhịp cầu…
2. Day after day the bridge bore you to the early market, me to brown fields—
we grew used to the Ngự Bình boat songs; the water below stayed clear like local hearts…
all guarded the spans that joined people together for the future.
Hò Ngự Bình = Huế rowing chant; clear water mirrors honest folk.
Hò Ngự Bình là điệu hò xứ Huế; “nước trong” phản chiếu lòng người ngay thẳng.
3. Từng đoàn người dệt tương lai đi nắng về trưa…
…Âm thầm người đi, người về trót ghi lời thề ngoài miền sơn khê
3. Processions wove the future—morning sun to midday heat—
students in white crossed at dusk; buses came and went…
quietly, some left and returned, vows etched out by the mountain passes.
School uniforms (white ao dài) = youth; traffic over bridge = civic pulse.
Áo trắng học trò = tuổi học trò; nhịp xe qua cầu = nhịp sống đô thị.
4. Ngày nào cầu đã đưa anh qua phố tìm em…
…Tình yêu ta như nước trong dù qua mấy sông lòng vẫn một lòng…
4. There was a day the bridge took me to town to find you…
it urged me to keep first love whole; water under the bridge stayed limpid—
like our poor but steadfast love, single-hearted through many rivers.
Water under bridge = fidelity through trials.
Nước dưới cầu = ẩn dụ thuỷ chung dẫu bể dâu.
5. Tình người về giữa đêm xuân… giặc đã qua đây…
Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi…
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai…
Vì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu…
…Nối lại nhịp cầu rửa hờn cho nhau
5. In spring’s midnight, while joy still lingered, war came—
tonight the bridge of affection has lost a span.
Conical hats mourn to the Nam Ai lament…
Why not cherish one another, instead of bringing sorrow and breaking the crossing?
May we one day rejoin the spans and wash away rancor.
Broken span = wartime damage; Nam Ai underscores lament; closing wish seeks reconciliation.
Gãy nhịp = vết thương chiến tranh; Nam Ai nhấn ai oán; kết ước mong hoà giải – “nối nhịp” lòng người.